Dấu ấn ung thư (*) là những chất được sản xuất bởi các tế bào ung thư hoặc bởi các tế bào từ các mô bình thường trong cơ thể, xuất hiện một cách tự nhiên. Chúng thường không có hoặc có với nồng độ rất thấp trong huyết thanh của người bình thường. Các dấu ấn ung thư có thể xác định được trong huyết thanh, huyết tương, nước tiểu, các dịch trong cơ thể hoặc các tổ chức, giúp đánh giá, tiên lượng hoặc theo dõi đáp ứng trong quá trình điều trị cho bệnh nhân ung thư.
Dưới đây là một số dấu ấn ung thư hay được sử dụng trong chẩn đoán và theo dõi đáp ứng trong quá trình điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi.
1. Cyfra 21-1 (Cytokeratin-19 Fragment):
Cyfra 21-1 là Cytokeratin-19 Fragment hòa tan trong nước. Giá trị bình thường trong huyết thanh < 3,3 ng/ml. Các nghiên cứu về mô bệnh học cho thấy Cyfra 21-1 tăng cao trong ung thư phổi. Mức tăng nhẹ (>3,3ng/ml) của dấu ấn này thấy ở một số bệnh lành tính như bệnh gan và suy thận, trong một số bệnh ác tính ngoài phổi khác như phần phụ, tuyến tiêu hóa, u trung biểu mô màng phổi, đường tiết niệu. Tuy nhiên, nồng độ Cyfra 21-1 tăng cao nhất trong ung thư phổi, chủ yếu ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Các dấu ấn ung thư chủ yếu được áp dụng để đánh giá hiệu quả điều trị, tiên lượng, theo dõi tái phát, di căn của bệnh ung thư.
Khi so sánh với các dấu ấn ung thư khác, một số tác giả cho rằng Cyfra 21-1 là dấu ấn ung thư nhạy nhất trong ung thư phổi, với nồng độ cao nhất trong ung thư phổi dạng biểu bì. Độ nhạy của Cyfra 21-1 từ 30-75% trong ung thư phổi không tế bào nhỏ và từ 20-60% trong ung thư phổi tế bào nhỏ. Cyfra 21-1 rất có giá trị trong chẩn đoán, tiên lượng (chủ yếu ung thư phổi không tế bào nhỏ), chẩn đoán sớm tái phát và theo dõi điều trị.
2. NSE (Neuron Specific Enolase):
Là dấu ấn ung thư được dùng trong ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTP KTBN). NSE có trong tiểu cầu và hồng cầu có tác dụng ngăn ngừa chảy máu. Nồng độ trong huyết thanh người bình thường < 13g/l. Tăng NSE trong huyết thanh mức độ vừa gặp 10-20% trong ung thư phổi không tế bào nhỏ và một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân có bệnh phổi lành tính hoặc một số bệnh ác tính khác của tụy, dạ dày, vú.
Ngược lại, mức NSE tăng gấp đôi bình thường nghĩ đến ung thư phổi tế bào nhỏ hoặc u thần kinh nội tiết. Độ nhạy của NSE trong ung thư phổi tế bào nhỏ từ 50-80%, liên quan đến sự tiến triển của khối u. Nhiều nghiên cứu cho thấy NSE có giá trị như một yếu tố tiên lượng độc lập trong cả ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ. NSE còn có giá trị trong việc theo dõi điều trị cũng như phát hiện ung thư phổi tế bào nhỏ tái phát sau điều trị ban đầu.
Tổn thương do ung thư phổi
3. ProGRP (Pro-gastrin-releasing Peptide):
Là tiền thân của hormon giải phóng gastrin. Nồng độ trong huyết thanh người bình thường < 50 pg/ml. Độ đặc hiệu của ProGRP cao và chỉ có suy thận mới sinh ra mức tăng có ý nghĩa của dấu ấn này trong huyết thanh. Ngoài suy thận, dưới 5% bệnh nhân có bệnh lành tính hoặc ác tính, không kể ung thư phổi hoặc u thần kinh nội tiết có tăng ProGRP >50pg/ml. Nồng độ ProGRP liên quan chặt chẽ với týp ung thư phổi, tăng cao nhất ở bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ.
Độ nhạy của ProGRP từ 40-60% ở ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn khu trú và từ 75-85% ở giai đoạn tiến triển. Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy ProGRP có độ nhạy cao hơn NSE ở bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn khu trú. Tuy nhiên, khi kết hợp với NSE làm tăng độ nhạy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán, tiên lượng, theo dõi và chẩn đoán sớm tái phát.
4. CEA (Carcinoembryonic Antigen):
Giá trị bình thường trong huyết thanh < 5ng/ml. Nồng độ CEA tăng nhẹ dưới 10ng/ml gặp 5-10% ở những người hút thuốc và một số bệnh lành tính khác như gan và thận (<20ng/ml). CEA là dấu ấn ung thư sử dụng chủ yếu trong ung thư biểu mô tuyến. Độ nhạy của CEA từ 40-70% trong ung thư phổi không tế bào nhỏ và từ 30-65% trong ung thư phổi tế bào nhỏ.
Độ nhạy và nồng độ cao nhất của CEA gặp trong ung thư biểu mô tuyến, nồng độ thấp nhất là trong ung thư phế quản dạng biểu bì. CEA có giá trị tiên lượng trong ung thư phổi không tế bào nhỏ, đặc biệt trong ung thư biểu mô tuyến. Nếu kết hợp với các dấu ấn khác, CEA có giá trị chẩn đoán sớm tái phát và theo dõi điều trị.
5. SCC (Squamous Cell Carcinoma Antigen):
Nồng độ trong huyết thanh người bình thường <1,9 ng/ml. Kết quả dương tính giả chủ yếu gặp trong suy thận và rối loạn sắc tố da, có khi gấp 30-40 lần giá trị bình thường. Độ nhạy của SCC trong ung thư phổi không tế bào nhỏ từ 25-60% nhưng rất thấp ở ung thư phổi tế bào nhỏ (<5%), cao nhất trong ung thư phổi dạng biểu bì. Một trong những ứng dụng quan trọng nhất của SCC trong ung thư phổi là chẩn đoán týp ung thư, ngoài ra nó còn có ý nghĩa như một yếu tố tiên lượng, chẩn đoán sớm tái phát và theo dõi tiến triển của bệnh.
6. TPA (Tissue Polypeptide Antigen):
Nồng độ trong huyết thanh người bình thường < 80U/l. Nồng độ TPA tăng nhẹ trong một số bệnh lành tính như nhiễm khuẩn, virus, viêm gan cấp và bệnh tự miễn; tăng cao hơn trong một số bệnh ác tính của vú, phổi, dạ dày, đại tràng, tụy, bàng quang, tiền liệt tuyến, u lympho. Trong ung thư phổi, nồng độ TPA trước điều trị liên quan đến cả kích thước u, hạch di căn và di căn xa. Sau điều trị nồng độ TPA giảm dần. Độ nhạy của TPA trong ung thư phổi không tế bào nhỏ từ 36-82%. TPA tăng cao ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (đặc biệt ung thư phổi dạng biểu bì) hơn là ung thư phổi tế bào nhỏ.
(*) Dấu ấn ung thư hay còn gọi là chất chỉ điểm khối u trong máu, là các chất được tạo ra bởi tế bào ung thư hoặc bởi tế bào bình thường đáp ứng với sự hiện diện của ung thư hoặc các bệnh lý khác. Các dấu ấn ung thư này có thể hiện diện trong tế bào, trong mô và trong dịch cơ thể (máu, nước tiểu, dịch não tủy), hiện nay hay sử dụng đánh giá các dấu ấn ung thư trong máu. Các dấu ấn ung thư chủ yếu được áp dụng để đánh giá hiệu quả điều trị, tiên lượng, theo dõi tái phát, di căn của bệnh ung thư đã được chẩn đoán xác định trước đó. Còn với vai trò tầm soát ung thư thì giá trị không nhiều và chỉ có ý nghĩa với một số loại ung thư.
(Theo Sức khỏe và Đời sống)