Albumin là một trong những thành phần protein quan trọng nhất của huyết thanh, Chức năng của albumin bao gồm điều hoà phân bố dịch ngoài tế bào, vận chuyển các loại hormone, vitamin và kim loại vết. Vậy những phương pháp xác định Albumin huyết thanh và ưu nhược điểm của chúng là gì?
1. Phương pháp kết tủa globulin bằng muối:
Protein toàn phần gồm chủ yếu là albumin và globulin. Globulin được tách khỏi albumin bằng cách sử dụng muối natri làm kết tủa globulin. Albumin vẫn còn trong dung dịch, sau đó sử dụng các phản ứng xác định protein toàn phần thông thường, để định lượng albumin trong huyết thanh. Ngày nay phương pháp này không còn được sử dụng nữa do đã có các phương pháp khác có thể xác định trực tiếp albumin mà không cần bước loại bỏ globulin bằng muối.
2. Phương pháp nhuộm màu: Đây là phương pháp phổ biến để xác định albumin. Điều chỉnh pH của dung dịch để albumin tích điện dương, albumin sẽ gắn với thuốc nhuộm tích điện âm bằng lực hút tĩnh điện. Khi thuốc nhuộm gắn lên albumin thì độ hấp thụ ánh sáng của thuốc nhuộm cũng thay đổi, dựa vào độ hấp phụ ánh sáng của dung dịch để xác định nồng độ albumin trong mẫu. Có nhiều thuốc nhuộm có thể sử dụng như methyl orange, 2,4’-hydroxy-azobenzene-benzoic acid (HABA), bromocresol green (BCG) và bromocresol purple (BCP).
Thuốc nhuộm methyl orange không cho phản ứng đặc hiệu với albumin, nó còn có thể kết hợp với cả β-lipoproteins và α1-, α2-globulins.
HABA có độ nhạy thấp nhưng có tính đặc hiệu cao hơn với albumin. Tuy nhiên, một số chất sau đây có thể ảnh hưởng tới khả năng kết hợp của HABA với albumin: salicylates, penicillin, bilirubin liên hợp, sulfonamide.
BCG không bị nhiễu bởi các chất như bilirubin và salicylate. Tuy nhiên, hemoglobin có thể gắn với BCG. Cứ mỗi 100 mg/dL hemoglobin trong mẫu thì albumin tăng thêm 0.1 g/dL. Ở những bệnh nhân hội chứng thận hư hoặc bệnh thận giai đoạn cuối, có tình trạng giảm albumin (thấp) và tăng α-globulin, khi định lượng albumin bằng phương pháp BCG thấy có tình trạng tăng albumin. Điều này là do α-globulin cũng phản ứng với BCG, làm tăng đậm độ màu của dung dịch, kết quả là albumin được ước tính cao hơn thực tế. Độ đặc hiệu của phản ứng BCG với albumin sẽ được cải thiện nếu đo độ hấp phụ trong thời gian chuẩn (thường <5 phút do α-globulin cần thời gian ủ đủ dài mới làm thay đổi đáng kể) sau khi trộn huyết thanh với thuốc thử.
BCP là một phương pháp nhuộm albumin khác, và nó kết hợp đặc hiệu với albumin. BCP không bị nhiễu bởi phần lớn các chất, đây là phương pháp có độ lặp lại và độ chính xác cao tương đương với phương pháp tham chiếu miễn dịch khuếch tán (immunodiffusion reference method). Nhưng không phải BCP là không có điểm hạn chế, ở những bệnh nhân suy thận, phương pháp BCP ước tính thấp hơn giá trị thực albumin (giảm giả tạo). Do trong huyết thanh những bệnh nhân này xuất hiện một chất gắn rất chặt với albumin hoặc có sự biến đổi cấu trúc albumin, cả hai điều này đều làm giảm khả năng gắn của BCP với albumin. Bilirubin cũng ảnh hưởng tới khả năng kết hợp của BCP với albumin, trong khi đó BCG thì không bị ảnh hưởng bởi bilirubin. Ngày nay, phương pháp BCP và BCG là hai phương pháp sử dụng phổ biến nhất trong hóa sinh lâm sàng để xác định albumin.
Tác giả: Lê Văn Công – Chuyên viên quản lý sản phẩm Phương Đông
Tài liệu tham khảo: Cẩm nang hóa sinh lâm sàng 2020 – Lê Văn Công